Xử lý vấn đề thiếu vốn:
Khi thiếu vốn, doanh nghiệp có thể huy động thêm bằng cách phát hành thêm cổ
phiếu, trái phiếu, vay ngân hàng ... Trong trường hợp này, để có thể huy động
thêm vốn, doanh nghiệp phải có phương án kinh doanh, dự án đầu tư có tính khả
thi cao nhằm chứng minh cho các nhà đầu tư thấy được khả năng thu hồi vốn khi họ
bỏ vốn vào doanh nghiệp. Việc huy động thêm vốn sẽ tương đối dễ dàng nếu doanh
nghiệp đang hoạt động hiệu quả, cần vốn để mở rộng hoạt động kinh doanh của
mình. Ngược lại, nếu không chứng minh được
hiệu quả hoạt động kinh doanh hiện tại và tính khả thi của dự án thì việc huy động
vốn sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Xử lý vấn đề yếu kém về năng lực quản
trị điều hành: Khả năng quản trị điều hành của một
doanh nghiệp phụ thuộc vào hai yếu tố chính là các mối quan hệ nội tại (văn hoá
doanh nghiệp, trình độ đội ngũ nhân sự) và công nghệ, kỹ thuật quản lý đang được
áp dụng. Công nghệ và kỹ thuật quản lý là thứ có sẵn. Chúng được mô tả rất kỹ
trong các giáo trình và được dạy rất nhiều ở các trường kinh doanh. Vấn đề đặt
ra là công nghệ quản lý nào phù hợp và
có thể áp dụng vào doanh nghiệp? Điều này do những mối quan hệ nội tại của
doanh nghiệp quyết định. Một doanh nghiệp có thể nhận biết được những trục trặc
trong cung cách quản lý, nhưng nếu không có những đột biến (một hội đồng quản
trị, một tổng giám đốc mới năng động có tầm nhìn tốt và có quyền quyết định)
thì khả năng thay đổi những cách ứng xử, cách quản lý cản trở sự phát triển của
doanh nghiệp là điều rất khó. Trong trường hợp này, dù biết trì trệ là không tốt,
nhưng rất nhiều người không muốn thậm chí cản trở việc thay đổi do bị đụng chạm
lợi ích cá nhân, đôi khi chỉ là do đã quen với cái cũ mà người ta không muốn áp
dụng cái mới phải mất công học lại từ đầu. Khác với việc huy động thêm vốn, việc
nâng cao hiệu quả quản trị công ty sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Điều kiện để việc
thay đổi cung cách quản trị có khả năng thành công là doanh nghiệp phải có tiềm
lực tài chính tốt, trình độ công nghệ phù hợp. Một cách thay đổi cung cách quản
lý mà các chủ doanh nghiệp thường làm là thay toàn bộ hay phần lớn đội ngũ quản
lý hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề sẽ không đơn giản chút nào nếu doanh nghiệp
không thể hoặc không có quyền thay đổi những người điều hành kém năng lực.
Xử lý vấn đề yếu kém về trình độ
công nghệ: Công nghệ được bán rất nhiều trên thị trường. Nếu
có tiền là có thể mua để áp dụng vào doanh nghiệp được ngay. Tuy nhiên, dù công
nghệ tiên tiến có sẵn và biết rằng công nghệ hiện tại không phù hợp, lạc hậu,
nhưng khó khăn cho doanh nghiệp là làm thế nào có thể lựa chọn được công nghệ
phù hợp. Đơn cử như trường hợp các ngân hàng Việt Nam, mặc dù biết rằng phát
triển các dịch vụ ngân hàng bán lẻ là hết sức cần thiết, nhưng họ vẫn loay hoay
trong việc tìm kiến, lựa chọn công nghệ để phát triển dịch vụ này. Như vậy,
cũng giống như trường hợp về khả năng quản lý, để tìm được công nghệ phù hợp
cho doanh nghiệp, cần phải có người đủ khả năng tìm ra nó và đương nhiên điều
kiện kèm theo là phải đủ tiền để mua công nghệ mới.
Từ
những phân tích nêu trên cho thấy, việc cải cách một doanh nghiệp đang hoạt động
kém hiệu quả (chỉ gặp trục trặc ở một trong ba trụ cột) đã là một việc làm hết
sức khó khăn. Tuy nhiên, cuộc đời không đơn giản như vậy, do ba trụ cột có quan
hệ hữu cơ với nhau, khi đã gặp trục trặc, thì doanh nghiệp không chỉ yếu về tiềm
lực tài chính mà còn hạn chế về năng lực quản lý, lạc hậu về công nghệ. Vấn đề
lúc này đã trở nên phức tạp hơn rất nhiều và việc cải cách doanh nghiệp sẽ vô
cùng khó khăn do các lý do sau:
1.
Việc huy động thêm vốn khi doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh kém hiệu quả,
cung cách quản lý trì trệ, trình độ công nghệ lạc hậu, thị trường bị giảm sút
là điều cực kỳ khó khăn, vì ít có nhà đầu tư nào dám bỏ vốn vào một doanh nghiệp
như vậy mà họ không có quyền hoặc không có có khả năng quản lý, kiểm soát.
2.
Việc thay đổi cách thức quản lý, văn hoá, tập quán kinh doanh khi đang gặp khó
khăn là điều không thể xảy ra. Các mối quan hệ trong bản thân doanh nghiệp lúc
này rất phức tạp và khó gỡ, nhất là các quan hệ và xung đột lợi ích cục bộ.
Doanh nghiệp chỉ loay hoay đối phó những khó khăn trước mắt mà quên đi việc
phân tích nguyên nhân sâu xa và đề ra các giải pháp xử lý triệt để.
3.
Việc đưa vào áp dụng công nghệ tiên tiến khi mà hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả, cung cách quản lý trì trệ là điều bất khả thi. Muốn áp dụng công nghệ mới thì cần phải có tiền để mua.
Khi
một doanh nghiệp rơi vào tình trạng gặp vấn đề ở tất cả các mặt, nhưng có tiềm
năng phát triển và khả năng sinh lợi trong tương lai thì cần phải cải cách triệt
để. Để có thể cải cách triệt để, cần phải một người (tổ chức) có các khả năng
sau:
1.
Nhìn thấy tiềm năng phát triển trong dài hạn của doanh nghiệp, đồng thời có thể
"giúp" doanh nghiệp xây dựng được chiến lược phát triển dài hạn này.
2. Có tiềm lực tài chính mạnh hoặc có khả năng
huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu hiện tại, và đảm bảo đủ vốn thực hiện chiến
lược phát triển dài hạn.
3.
Có khả năng quản lý hoặc đưa ra cách thức quản lý phù hợp với doanh nhiệp nhằm
khắc phục những yếu kém hiện tại, đảm bảo chiến lược phát triển dài hạn.
4. Am hiểu về công nghệ, có khả năng tìm ra
công nghệ phù hợp với tình trạng hiện tại của doanh nghiệp và chiến lược phát
triển dài hạn.
5.
Có khả năng tiếp cận và mở rộng thị trường của doanh nghiệp trong tương lai
Nói
cách khác, để cải cách thành công, doanh nghiệp cần một người có khả năng đánh
giá đúng thực trạng, đưa ra được những giải pháp đồng thời có thể hỗ trợ để
doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Người có khả năng và có thể giúp doanh nghiệp
như vậy chính là các nhà đầu tư chiến lược. Thường có hai loại nhà đầu tư chiến
lược chính. Loại thứ nhất là các quỹ đầu tư. Loại còn lại là các doanh nghiệp dẫn
đầu trong lĩnh vực kinh doanh đó đang thực hiện kế hoạch mở rộng hoạt động,
tăng cường sức mạnh trên thị trường.
Các quỹ đầu tư:
Các quỹ đầ tư (nhà đầu tư có tổ chức) là những nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp.
Các quỹ đầu tư có sự am hiểu và khả năng phân tích, đánh giá thị trường rất tốt.
Với chiến lược đầu tư dài hạn, họ luôn tìm kiếm những doanh nghiệp có nhiều tiềm
năng (có thể đang gặp khó khăn) để đầu tư. Một doanh nghiệp sẽ có được lợi thế
rất lớn khi có các quỹ đầu tư tham gia, vì với tiềm lực tài chính và uy tín của
họ có thể tạo ra đủ độ tin cậy cần thiết cho những nhà đầu tư nhỏ lẻ sẵn sàng bỏ
vốn vào doanh nghiệp. Đối với các quỹ đầu tư, có thể kiến thức chuyên môn trong
lĩnh vực doanh nghiệp kinh doanh của họ không tốt bằng những doanh nghiệp hàng đầu
trong lĩnh vực đó. Nhưng kỹ năng quản lý, nhất là quản lý tài chính luôn là thế
mạnh tuyệt đối của họ và với những lợi thế của mình, họ hoàn toàn có thể tìm được
một nhà tư vấn, một nhà quản lý (tổng giám đốc) giỏi biết cách quản lý, lựa chọn
đúng công nghệ làm cho doanh nghiệp phát triển. Việc có được các nhà đầu tư chiến
lược là các quỹ đầu tư sẽ đảm bảo cho sự phát triển dài hạn của doanh nghiệp và
rủi ro bị thâu tóm cũng rất thấp.
Các doanh nghiệp hoạt động cùng
lĩnh vực, có uy tín và thương hiệu tốt: Các doanh nghiệp có
quyền lực thị trường hoặc đang muốn có quyền lực thị trường luôn tìm mọi cách mở
rộng hoạt động, gia tăng thị phần. Đối với các doanh nghiệp này, họ luôn có những
lợi thế rất lớn so với những doanh nghiệp khác hoạt động trong cùng lĩnh vực.
Nhìn chung, các doanh nghiệp này thường có tiềm lực tài chính mạnh, khả năng quản
lý tốt, trình độ công nghệ tiên tiến và họ thường mở rộng thị trường bằng cách
liên kết hoặc tham gia đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong cùng lĩnh vực
sẵn có trên thị trường mà họ muốn mở rộng hoạt động. Nếu một doanh nghiệp nào
đó đang hoạt động kém hiệu quả cần có một sự cải cách triệt để được những nhà đầu
tư loại này tham gia thì sẽ là một điều kiện và lợi thế rất lớn. Tuy nhiên, đối
với trường hợp này, doanh nghiệp cần phải có đủ độ sáng suốt và tạo ra sự độc lập
cần thiết, nếu không, khả năng bị thâu tóm, bị mua bán thù địch rất có thể xảy
ra.
Khi
một doanh nghiệp đang gặp trục trặc về tiềm lực tài chính, cung cách quản lý và
trình độ công nghệ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng phát
triển dài hạn, thì cách tốt nhất là tìm các nhà đầu tư chiến lược. Việc có được
các nhà đầu tư chiến lược nằm trong hội đồng quản trị sẽ là một đảm bảo rất lớn
đối với công chúng về uy tín và tính tin cậy của doanh nghiệp. Những bằng chứng
rất rõ ràng về vai trò của các nhà đầu tư chiến lược tại Việt Nam là trường hợp
của Ngân hàng thương mại cổ phần Á châu (ACB) và Ngân hàng Thương mại cổ phần
Sài Gòn Thương tín (Sacombank). Từ khi có Công ty tài chính quốc tế (IFC) ngồi
trong hội đồng quản trị thì hình ảnh và chiến lược kinh doanh của hai ngân hàng
này đã có một thay đổi rất rõ rệt.
Trở
lại trường hợp cụ thể của Việt Nam, các doanh nghiệp nhà nước nói riêng, doanh
nghiệp Việt Nam nói chung hầu hết bị đánh giá là yếu cả về tiềm lực tài chính,
năng lực quản lý, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường, khả năng
xây dựng chiến lược và định hướng phát triển dài hạn. Để có thể hội nhập và cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, nhất là các công ty đa quốc gia, các
doanh nghiệp Việt Nam phải khắc phục ngay nhược điểm này. Mỗi loại hình doanh
nghiệp đang có những nỗ lực và cách hành xử riêng của mình.
Đối với các doanh nghiệp nhà nước,
để khắc phục những điểm yếu nêu trên, nhiều
doanh nhiệp đang thực hiện kế hoạch cổ phần hoá. Tuy nhiên, việc cổ phần
hoá các doanh nghiệp nhà nước đang gặp những khó khăn và vấn đề của nó. Nhiều
trường hợp doanh nghiệp bán cổ phần không có người mua hoặc nhiều doanh nghiệp
sau khi cổ phần hoá cũng chẳng có gì thay đổi, hoạt động kinh doanh vẫn không
hiệu quả do bản chất của việc cổ phần hoá vẫn là "bình mới rượu
cũ".
Tại
sao lại việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước gặp phải tình trạng như vậy?
Theo tôi nguyên nhân có thể là do có những quan điểm, cách nghĩ, cách hiểu chưa
thực sự hợp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp hiện nay như sau:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng vấn đề
của các doanh nghiệp nhà nước đơn thuần chỉ là không đủ vốn, cổ phần hoá đơn giản
là kêu gọi thêm nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài trong điều kiện ngân sách nhà nước
bị hạn chế, khi có đủ vốn, doanh nghiệp sẽ mặc nhiên hoạt động hiệu quả.
Quan điểm này không được hợp lý lắm vì, thực tế, khi cổ phần hoá, nếu doanh
nghiệp đang hoạt động hiệu quả, có lợi nhuận cao thì cổ phần thường rất ít khi
đến được tay công chúng. Ngược lại, trường hợp doanh nghiệp hoạt động không hiệu
quả thì rất khó để nhà đầu tư bỏ tiền vào. Rõ ràng vấn đề của các doanh nghiệp
nhà nước không đơn thuần chỉ là thiếu vốn mà còn có những vấn đề khác nữa.
- Quan điểm thứ hai cho rằng doanh
nghiệp nhà nước đang gặp phải cả ba vấn đề nêu trên, nhưng vấn đề sẽ được giải
quyết ngay sau khi cổ phần hoá và doanh nghiệp sẽ hoạt động hiệu quả.
Đối với quan điểm này, giả sử khi cổ phần hoá bán ra công chúng được một phần cổ
phiếu, nhưng không có nhà đầu tư mới nào là cổ đông lớn, có đủ lượng cổ phiếu để
có chân trong hội đồng quản trị, đội ngũ điều hành doanh nghiệp vẫn như cũ thì
việc thay đổi sau khi cổ phần hoá liệu có khả năng xảy ra không. Không thể hiểu
đơn giản hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chỉ do vấn đề sở hữu
quyết định mà nó phụ thuộc rất nhiều vào "người" trực tiếp quyết định
đến hoạt động của doanh nghiệp. Khi mà người trực tiếp quyết định đến doanh
nghiệp không thay đổi hoặc không bị áp lực phải thay đổi thì chẳng có gì xảy ra
cả.
Chính
những trục trặc ngay từ quan điểm đã dẫn đến những lệch lạc trong quá trình triển
khai thực tế làm cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước chưa đạt được
những mục tiêu như mong muốn.
Trục
trặc của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay là do năng lực quản trị công ty
kém, trình độ công nghệ lạc hậu song song với tiềm lực tài chính yếu chứ không
đơn thuần chỉ là vấn đề về tiềm lực tài chính. Do đó, khi thực hiện cổ phần hoá,
mỗi doanh nghiệp cần phải tìm một nhà đầu tư chiến lược phù hợp. Có như vậy, mục
tiêu nâng cao tiềm lực tài chính, năng lực quản lý, trình độ công nghệ, mở rộng
thị trường nhằm phục vụ tốt cho mục tiêu phát triển kinh tế của các doanh nghiệp
nhà nước được cổ phần hoá mới có thể trở thành hiện thực. Tuy nhiên, hiện đang
có một rào cản rất lớn đối với các nhà đầu tư chiến lược, vì không phải doanh
nghiệp nào (nhất là đội ngũ điều hành hiện tại) cũng muốn có nhà đầu tư chiến
lược tham gia. Một khi có nhà đầu tư chiến lược tham gia và có tiếng nói trong
các quyết định của doanh nghiệp thì quyền lực của những người điều hành hiện tại
bị giảm đi rất nhiều và khả năng bị sa thải vì năng lực không đáp ứng được yêu
cầu công việc là điều khó tránh khỏi. Để hạn chế tác động tiêu cực này, Nhà nước
cần có những cơ chế phù hợp tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham gia
đầu tư, tránh tình trạng "đóng cửa" khi cổ phần hoá doanh nghiệp.
Đối
với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tiềm lực tài chính thấp, kỹ năng quản
lý, trình độ công nghệ lạc hậu, khả năng xây dựng chiến lược phát triển dài hạn
là những trở lực chính trong quá trình phát triển và nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Do đó, việc tìm cho mình một nhà đầu tư chiến lược phù
hợp là điều hết sức cần thiết.
Việc
có nhà đầu tư chiến lược là điều cần thiết, tuy nhiên, vấn đề đặt ra là doanh
nghiệp nên chọn đối tượng nào làm nhà đầu tư chiến lược?
Mỗi
loại nhà đầu tư chiến lược đều có những lợi thế và vấn đề riêng. Nhiệm vụ đặt
ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam là phải tìm được nhà đầu tư chiến lược hợp
lý, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, giảm thiểu nguy cơ bị
thâu tóm. Theo ý kiến chủ quan của người viết, các doanh nghiệp nên lựa chọn
nhà đầu tư chiến lược dựa vào chiến lược và khả năng phát triển của doanh nghiệp
mình như sau:
-
Đối với doanh nghiệp cần khẳng định thương hiệu và giữ vững thị phần không bị
"đồng hoá" với các sản phẩm dịch vụ của nhà đầu tư chiến lược thì tốt
nhất nên chọn nhà đầu tư chiến lược là các quỹ đầu tư. Trong trường hợp này,
các quỹ đầu tư sẽ có những hỗ trợ cần thiết nhưng họ sẽ không tham gia quá sâu
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
-
Đối với các doanh nghiệp không nhất thiết phải khẳng định thương hiệu, giữ vững
thị phần vì doanh nghiệp đang có một "quyền lực" thị trường nào đó
thì nên chọn nhà đầu tư là các doanh nghiệp cùng ngành. Trong trường hợp này,
nên để các nhà đầu tư chiến lược tham gia nhiều vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Có như vậy sẽ huy rất tốt thế mạnh và kinh nghiệm của họ.
Mặt
khác, để giảm thiểu khả năng bị chi phối, thâu tóm bởi nhà đầu tư chiến lược,
doanh nghiệp nên chọn hai nhà đầu tư chiến lược trở lên (tốt nhất là các đối thủ
cạnh tranh của nhau). Nếu không, có thể chọn một nhà đầu tư chiến lược là các
quỹ đầu tư, một là doanh nghiệp cùng ngành. Trong trường hợp này, vì lợi ích của
mình, quỹ đầu tư sẽ cùng với những chủ sở hữu khác sẽ có những giải pháp phòng
ngừa việc thâu tóm của nhà đầu tư chiến lược kia.
Một
cách lựa chọn khác là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ có thể chọn nhà đầu tư chiến lược là doanh nghiệp cùng ngành.
Trong trường hợp này, việc bị đồng hoá các sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp với
nhà đầu tư chiến lược sẽ khó khăn hơn vì nó đòi hỏi một cơ sở hạ tầng, nền tảng
nhất định. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh
các sản phẩm thực nên chọn nhà đầu tư chiến lược là các quỹ đầu tư vì nếu chọn
nhà đầu tư cùng ngành thì khả năng bị mất bí quyết công nghệ, bị thâu tóm hay bị
đồng hoá sản phẩm, thương hiệu sẽ rất lớn.
Khi
có các nhà đầu tư chiến lược tham gia, tương lai phát triển dài hạn của doanh
nghiệp sẽ rõ ràng hơn rất nhiều. Uy tín của doanh nghiệp được khẳng định, khả
năng niêm yết, kêu gọi vốn đầu tư của công chúng sẽ dễ dàng hơn. Lúc này, vô
hình chung, các nhà đầu tư tổ chức sẽ trở thành những người dẫn dắt thị trường.
Đây chính là vai trò rất lớn của các nhà đầu tư chiến lược (nhất là các quỹ đầu
tư) trong việc phát triển của thị trường chứng khoán. Một thị trường chứng
khoán mạnh được dựa trên những doanh nghiệp niêm yết mạnh.
Đến
đây, có thể kết luận rằng, các nhà đầu tư chiến lược đóng một vai trò rất lớn
trong tiến trình cải cách doanh nghiệp và phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam. Để đẩy nhanh tiến trình cải cách các doanh nghiệp nhà nước và thúc đẩy thị
trường chứng khoán phát triển theo đúng quỹ đạo của nó, dưới góc độ vĩ mô, Nhà
nước cần phải quan tâm hơn và tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham
gia đầu tư vào các doanh nghiệp. Dưới góc độ vi mô, mỗi doanh nghiệp nên tìm
cho mình một nhà đầu tư chiến lược phù hợp nhằm đảm bảo cho một chiến lược phát
triển dài hạn và vững chắc.
Hải Triều.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn:
Chương trình giảng dạy Kinh tế Fullbright
Tác
giả: Huỳnh Thế Du.