Wednesday, December 30, 2015

“Tiền lương và sự ảnh hưởng đối với đời sống người lao động”

 Tiền lương là sự trả công hoặc thu nhập được thể hiện bằng tiền và được ấn định bằng thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động theo hợp đồng lao động cho một công việc đã thực hiện hay sẽ phải thực hiện, hoặc những dịch vụ đã làm hoặc sẽ phải làm.

Về phương diện xã hội, tiền lương cũng thực hiện chức năng kinh tế cơ bản của nó là đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho xã hội. Người lao động tái sản xuất sức lao động của mình thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền lương của họ. Để tái sản xuất sức lao động, tiền lương phải đảm bảo tiêu dùng cá nhân người lao động và gia đình họ. Do đó cần phải đảm bảo được mức lương tối thiểu để người lao động có thể nuôi sống họ và gia đình họ, mức lương tối thiểu chính là nền tảng cho chính sách tiền lương của các tổ chức và doanh nghiệp, là cơ sở đảm bảo lợi ích cho người lao động, cũng như bù đắp sức lao động.
 
Về phương diện kinh tế, tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích vật chất đối với người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình mình mà lao động một cách tích cực và nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động, cũng như gắn bó chặt chẽ hơn nữa với doanh nghiệp.
Như vậy có thể nói, vai trò của tiền lương trong doanh nghiệp rất quan trọng trong việc khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả nhất, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, khi lợi ích của người lao động được đảm bảo bằng các mức lương thỏa đáng, nó sẽ tạo ra sự gắn kết giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo cho người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, cũng như tự giác trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo nên phản ứng dây chuyền tích cực của tiền lương.
 
Nguyên tắc cơ bản trả lương trong doanh nghiệp, đó là phải xây dựng được chế độ tiền lương mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, phải theo quy luật phân phối lao động, cần đảm bảo năng suất lao động không ngừng tăng, đơn giản, dễ hiểu và rõ ràng. Bên cạnh đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khi doanh nghiệp muốn hạ giá thành sản phẩm, hay dịch vụ thì doanh nghiệp cần phải tăng năng suất lao động nhanh hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân của người lao động, có như vậy mới không gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó mới có điều kiện nâng cao đời sống của người lao động.

Việc xây dựng và quản lý tiền công và tiền lương, là vấn đề khá phức tạp đối với tất cả các doanh nghiệp, vì vậy đòi hỏi cấp quản trị của công ty cần phải nghiên cứu đầy đủ các yếu tố liên quan: Luật lao động, thị trường lao động, giá cả sinh hoạt, vị trí địa lý…, có như vậy mới tạo nên sự hài hòa về lợi ích của tất cả các thành phần lao động bên trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như tạo sự hăng say, đoàn kết và nhiệt tình của người lao động, và người lao động có quyền tự hào với mức lương được hưởng. Vì vậy, nếu công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu tính công bằng và hợp lý, sẽ nảy sinh những hệ quả không mong muốn, sẽ làm ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp, do đó cấp quản trị và cấp lãnh đạo doanh nghiệp cần phải cẩn trọng và quan tâm theo dõi đầy đủ công tác tiền lương, cần có các điều chỉnh hợp lý và thỏa đáng trong việc phân phối tiền lương.
Tóm lại, Tiền lương đóng vai trò đặc biệt vô cùng quan trọng, quyết định việc ổn định và phát triển của doanh nghiệp, cũng như tạo sự an tâm của người lao động, nếu tiền lương không đủ trang trãi cuộc sống và gia đình, mức sống người lao động giảm sút, thì buộc người lao động phải làm thêm việc ngoài và như vậy sẽ ảnh hưởng đến kết quả làm việc tại doanh nghiệp. Ngược lại, khi tiền lương được chi trả cho người lao động lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu, sẽ kích thích sự hăng say của người lao động, phấn khởi làm việc, dồn hết khả năng và sức lực của mình cho công việc vì lợi ích chung của doanh nghiệp, cũng như lợi ích riêng của bản thân người lao động và gia đình họ.
 
Hải Triều.

 

KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Monday, December 28, 2015

“Khó khăn và mất niềm tin, điều nào đáng sợ hơn ?”


Hạnh phúc sẽ không bao giờ kéo dài mãi mãi, đôi lúc trong cuộc sống sẽ luôn có thách thức và có khó khăn, điều quan trọng trong là sự đối diện với khó khăn như thế nào? Vượt qua nó như thế nào?

Thật sự khó khăn có đáng sợ hay không? Xin thưa rằng, khó khăn không đáng sợ, nhưng mất niềm tin mới là thứ đáng sợ nhất, niềm tin là động lực giúp để vượt qua nỗi sợ hãi và là động lực quan trọng tạo nên sự thành công. 
 
Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi,
nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Nguyễn Bá Học
Cuộc sống, đôi khi sẽ có một số vấn đề xảy ra và mất đi là để những điều tốt đẹp hơn có thể xuất hiện. Vì vậy, hãy luôn tin tưởng vào điều đó, mất đi điều gì đó không phải là quá tệ, mà đôi khi chính là cơ hội cho sự thay đổi, cũng như làm tiền đề cho sự đổi mới cho dù ban đầu thật sự sẽ rất khó khăn khi chấp nhận nó, và nghi ngờ những gì lâu nay tin tưởng vào nó, sẽ chìm đắm trong những suy nghĩ bi quan, tiêu cực về nó.
Khó khăn và bất hạnh sẽ luôn hiện diện với những người không có niềm tin, có bao giờ các bạn tự hỏi chính bản thân khi đối diện với một người nào đó, vì sao người ấy quá hoàn hảo. Cái gì họ cũng biết, cái gì họ cũng làm được và thành công, nhưng thực tế để được ngày hôm nay thì họ phải luôn trả giá và gặp phải rất nhiều vấn đề, nhưng đối với họ thất bại và sai lầm chỉ là tạm thời, họ luôn có niềm tin rằng rồi mọi chuyện sẽ qua và những điều tốt đẹp sẽ đến.
Đôi khi trong cuộc sống, có những thời điểm mà tất cả mọi thứ đều dường như chống lại các bạn, đến nổi các bạn sẽ tự suy nghĩ và cảm tưởng rằng khó có thể mà chịu đựng thêm một phút nào nữa, nhưng hãy đừng buông xuôi và bỏ cuộc vì sớm muộn gì mọi thứ rồi sẽ thay đổi. Niềm tin chính là nguồn năng lượng mạnh mẽ nhất, trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống, niềm tin giúp khơi nguồn những năng lực vốn có, ẩn sâu trong mỗi con người.
 
Niềm tin có thể sẽ không tạo nên những giấc mơ như là thiên đường, nhưng có thể hướng các bạn đến con đường mà các bạn cần phải đến, là động lực giúp mọi người hoàn thiện chính bản thân mình và đi đến những mục tiêu đã định.
 
"Đôi khi cuộc đời sẽ ném gạch vào đầu bạn.
Đừng đánh mất niềm tin"
Steve Job
 
Bởi vậy, cuộc sống vốn nhiều màu sắc, đa dạng và phong phú, đôi khi chỉ cần một câu nói động viên hay một ánh mắt cảm thông, hoặc một bờ vai làm chổ dựa cho người khác mượn khi họ cảm thấy tuyệt vọng, những điều đôi khi rất nhỏ bé và tầm thường lại là động lực rất lớn giúp họ vượt qua mọi chuyện và có niềm tin vào cuộc sống. 
Hãy nên nhớ rằng, thành bại, hợp tan, được mất, hơn thua , sống chết... đều là những nốt trầm của cuộc sống và ai cũng sẽ trãi qua, tất cả mọi thứ trên thế gian này đều phát sinh từ chữ "Duyên", cuộc sống không có gì là trường tồn vĩnh viễn, tất cả chỉ là vô thường.


Hải Triều.
KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Sunday, December 13, 2015

"Văn hóa ứng xử"

 
Lịch sử Việt Nam nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước công nguyên, còn tính từ khi nhà nước được hình thành thì mới khoảng hơn 4000 năm.

Văn hóa chính là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội, cũng như duy trì sự bền vững và trật tự xã hội, văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa ứng xử cũng chính là nét đẹp truyền thống của người Việt được truyền từ đời này sang đời khác, tạo nên các mối quan hệ đẹp có văn hóa có đạo đức trong cộng đồng dân cư, và trong tất cả các mối quan hệ xã hội coi trọng cảm tình trong giao tiếp.
“Bầu ơi thương lấy Bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Hay như:
“Một giọt máu đào hơn ao nước lã”
Giao tiếp ứng xử có văn hóa cũng là cơ sở để có được những mối quan hệ gắn bó và bền chặt trong cộng đồng xã hội, cũng như mọi mối quan hệ trong gia đình, quan hệ trên dưới tôn kính, quan hệ cha con chí hiếu, quan hệ vợ chồng ân tình, quan hệ anh em hòa thuận, quan hệ bạn bè tình nghĩa. Hiện nay, do cuộc sống xã hội hiện đại bận rộn, hay do những nguyên nhân nào khác mà ngày càng khiến chúng ta đang mất dần những nét đẹp truyền thống quý báu, văn hóa ứng xử đang dần mất đi nét đẹp vốn có, thay vào đó là những hành vi ứng xử ngẫu hứng một cách tùy tiện và thái quá.

“Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”

Thực trạng hiện nay, văn hóa ứng xử nơi công cộng của một bộ phận không nhỏ người Việt trở thành mối quan ngại rất lớn cho xã hội, điều này chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hành vi và biểu hiện trong cách ứng xử không được đẹp mắt như chửi thề, xã rác nơi công cộng, cướp hoa, bẻ cành trong các lễ hội, xô đẩy trẻ em và người già, cũng như bất chấp luật lệ giao thông.
 
 
Vẫn biết rằng, văn hóa không phải là lĩnh vực dùng để áp đặt hành vi và ứng xử, nhưng nó chính là nền tảng đạo đức xã hội và cần có môi trường lành mạnh đề hình thành và phát triển. Có hay chăng, Việt Nam cần xây dựng bộ Quy tắc ứng xử để phổ biến rộng rãi cho mọi người dân trong tất cả các tầng lớp xã hội, bộ Quy tắc ứng xử chính là cơ sở tiêu chuẩn, quy tắc và trách nhiệm trong xã hội với việc hành xử thực tế của cá nhân, tổ chức hay đảng phái, thường gắn với các khái niệm như đạo đức, danh dự hay tôn giáo.

Để xây dựng và nâng cao văn hóa ứng xử trong xã hội, cần bắt đầu từ gốc rễ gia đình là tế bào của xã hội, tế bào khỏe thì xã hội mạnh, do đó những giá trị sống bắt nguồn chính từ gia đình, là nơi dạy dỗ thế hệ tương lai những kỹ năng sống trong cuộc đời, để làm được điều này thì Bố mẹ, Ông bà phải là những người làm gương trước hết cho con cái về những giá trị đạo đức, những chuẩn mực hành vi và ứng xử trong gia đình, cũng như ngoài xã hội thông qua quyền tự do cá nhân trong ăn mặc và ứng xử, nhưng phải phù hợp và không làm ảnh hưởng đến các chuẩn mực đạo đức của xã hội.

Hải Triều.
--------------------------------------------------------------------------------------------
 
Nguồn tham khảo:
1.      http://www.wikipedia.com
2.      http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/di_tim_net_dep_van_hoa_ung_xu.html
3.      http://kynanggiaotiepungxu.edu.vn/ky-nang-giao-tiep/giao-tiep-ung-xu-xa-hoi
4.      http://honglam.vn/posts/van-hoa-viet/xa-hoi/net-dep-van-hoa-giao-tiep-ung-xu-cua-nguoi-viet.html
5.      http://ttvnol.com/threads/ca-dao-tuc-ngu-viet-nam-ung-xu-xa-hoi-cua-nguoi-viet.80679/
6.      http://dantri.com.vn/van-hoa-ung-xu.tag
7.      http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_ndct/_mobile_xahoi_ndct/item/27586702.html
8.      http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_ndct/_mobile_xahoi_ndct/item/27586702.html

 

 

KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Friday, December 11, 2015

"Phần 1: Văn hóa ẩm thực người Việt"


 Ẩm thực theo nghĩa "Hán Việt" thì ẩm nghĩa là uống, thực nghĩa là ăn, nghĩa hoàn chỉnh là ăn uống, là một hệ thống đặc biệt về quan điểm truyền thống và thực hành nấu ăn, nghệ thuật bếp núc, nghệ thuật chế biến thức ăn, thường gắn liền với một nền văn hóa cụ thể và đặt tên theo vùng. Món ăn chủ yếu ảnh hưởng của các thành phần có sẵn tại địa phương hoặc thông qua thương mại, buôn bán trao đổi. Nói rộng nghĩa thì ẩm thực có nghĩa là nền văn hóa ăn uống của một dân tộc theo một tập tục, một thói quen.

Nói cách khác, ẩm thực chính là nét văn hóa được hình thành trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày của con người. Văn hóa ẩm thực người Việt được biết đến với những nét đặc trưng như: tính hóa đồng, đa dạng, ít mỡ, đậm đà hương vị với sự kết hợp nhiều loại gia vị để tăng mùi vị, sức hấp dẫn trong các món ăn.


Hay như ca dao Việt Nam, thường ghép những món ăn nổi tiếng với những người sành ăn, biết thưởng thức để không uổng công người đầu bếp và tăng mối quan hệ giữa người với người trong bữa ăn, làm vui lòng nhau qua thái độ ứng xử lịch lãm, có văn hóa có giáo dục:

"Bông hồng mà nấu canh tôm
Ăn vào mát ruột, đêm hôm lại bồng
Sáng ngày bồ dục chấm chanh
Trưa gỏi cá chấy, tối canh cá chầy"

Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng, từ bản thân, đến trong gia đình và các mối quan hệ ngoài xã hội, cũng như đặc trưng nét văn hóa ẩm thực đối với mỗi vùng miền,
  
Ẩm thực miền Bắc





"Ra đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng, dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đàng đêm nao"




Ẩm thực miền Trung






"Muốn ăn bánh ít lá gai
Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi" 
"Mang bầu đến quán rượu dâu
Say sưa quên biết những câu ân tình"






Ẩm thực miền Nam



"Bậu ra bậu lấy ông câu
Bậu câu cá bống chat đầu kho tiêu
Kho tiêu, kho ớt, kho hành
Kho ba lượng thịt để dành mà ăn"







Như vậy, có thể nói nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa tiên tiến nhưng vô cùng đậm đà bản sắc Việt, không phải quốc gia nào trên thế giới có được. Việt Nam là quê hương của nhiều món ăn ngon, từ những món ăn dân giã trong ngày thường đến những món ăn cầu kỳ đề phục vụ lễ hội đều mang những nét độc đáo riêng, mỗi vùng miền đất nước lại có những món ăn khác nhau và mang ý nghĩa riêng biệt để tạo nên bản sắc độc đáo của dân tộc, đây chính là những nét đẹp của ẩm thực văn hóa Việt Nam.

Hải Triều.
----------------------------------------------------------------------------

Nguồn tham khảo:

1. http://vnexpress.net/am-thuc-duong-pho/tag-51409-1.html
2. https://vi.wikipedia.org/wiki/
3. http://vtc.vn/cac-mon-an-lam-nen-van-hoa-am-thuc-duong-pho-sai-gon.13.561924.htm
4. http://blog.tamtay.vn/entry/view/672118/Nhung-cau-ca-dao-tuyet-hay-ve-am-thuc-Viet-Nam.html
5. http://hoian-tourism.com/about-hoi-an/vietnam-culture/mealtime-customs?lang=vi
6. http://www.amthuc365.vn/am-thuc/van-hoa-am-thuc.html
7. http://huc.edu.vn/vi/spct/id172/KHAI-THAC-CAC-GIA-TRI-CUA-VAN-HOA-AM-THUC-DE-THU-HUT-KHACH-DU-LICH-QUOC-TE/
8. http://vietbao.vn/Doi-song-Gia-dinh/Net-dep-van-hoa-am-thuc/45137374/111/







KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Wednesday, December 9, 2015

"Yêu và ghét"

Yêu & Ghét

Yêu và ghét là mấu chốt cội nguồn tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống hàng ngày, tạo bao nhiêu phiền muộn và mệt mỏi cho mỗi con người chúng ta, vì sao chúng ta "Yêu" và vì sao chúng ta "Ghét" ? Đây là đề tài muôn thuở và tạo nguồn cảm hứng để con người phải tìm cách lý giải nó, và giãi mã các vấn đề nan giải của nó.

Yêu và ghét là hai đường thẳng song song, thật sự quá mong manh để cảm nhận được lằn ranh giữa yêu và ghét. Tâm lý hành vi của con người luôn hướng về những gì đẹp nhất, tốt nhất và những gì mình thích nhất, loại bỏ những gì chán ghét nhất, như ca dao đã diễn tả tâm trạng, tâm lý về hành vi:

"Yêu nhau yêu cả đường đi
Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng;
 
Yêu nhau trăm sự chẳng nề
Một trăm chổ lệch cũng kê cho bằng;
 
Yêu nhau quả ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo"



Yêu và ghét là cặp đôi luôn đối diện trong một bản thể của sự vật, khi yêu cái này buộc phải ghét cái nghịch với nó. Khi yêu thì luôn thèm khát nó, ca tụng và dành những ca từ gì đẹp đẽ nhất, cho rằng nó là báu vật, là vật vô cùng giá trị hoàn hảo và lấp lánh, ngược lại là chê bai, dèm pha, khe khắt lên án và tránh xa nó, xem nó như một tế bào đầy khiếm khuyết, xấu xí, vô giá trị...
 
Hay như câu chuyện phim hoạt hình nổi tiếng "Tom & Jerry", khi một cậu bé xem đến đoạn mèo Tom bị chú chuột Jerry rượt đuổi và đánh bầm dập thì cậu bé khoái chí la hét, thì khi Tôi hỏi cậu bé "vì sao con thấy mèo Tom bị ăn hiếp con lại khoái chí", thì cậu bé hồn nhiên nói rằng "Tom đâu có bị ăn hiếp, chỉ có chuột Jerry mới bị ăn hiếp, chuột Jerry trả thù là phải rồi". Như vậy, với mỗi hình tượng thì thái độ yêu và ghét là khác nhau, tùy theo mỗi góc nhìn "dù thực tế Mèo là có ích, và Chuột là gây hại". Trên thực tế, các mặt tốt xấu thường đan xen lẫn nhau, khó có thể đánh giá đối tượng hay sự vật đó là thuần túy là tốt hay thuần túy là xấu, và mỗi sự vật hiện tượng tùy mỗi thời điểm sẽ là tốt và xấu, cụ thể hay như mèo Tom lúc quá quắt ăn hiếp chuột Jerry và tấn công chuột Jerry, nhưng đôi lúc lại đoàn kết với chuột Jerry, cũng như giúp đỡ kẻ khác..., do đó không thể nhận định tuyệt đối chỉ có yêu hoặc ghét mà phải biết phân biệt chọn lọc.
 
Thông thường, con người luôn thỏa hiệp và chấp nhận tình cảm yêu và ghét một cách nhất thời như là lẽ tất nhiên của cuộc sống, chính vì dễ dàng chấp nhận với tư duy như vậy, nên vô tình người ta lại vun trồng và củng cố cho thứ tình cảm này, chính điều này nhà Phật đã xếp vào loại "Vô minh bẩm sinh" và làm cho con người luôn bị lẩn quẩn trong cái thế giảo ảo mị, cũng như bị vây hãm tâm trí, khiến con người luôn khổ sở đối diện với chúng và suy nghĩ làm sao phải vật lộn với nó, đối phó với nó, hết yêu rồi tới ghét...
 
Nhà Phật có giáo lý gọi là Trung Đạo, là con đường ở giữa, tức là Sắc sắc - không không (Sắc tức là không, không cũng là sắc, không mà có), điều này có nghĩa không có sự cố chấp hay bám vào bất cứ cái gì, không lệ thuộc vào cái có, không nô lệ vào cái không, không cho phép câu nệ hay ràng buộc, chấp chiếm, thiên lệch vào bất cứ sự việc sự vật nào.
 
Hay như đức Khổng Tử, đã khai sáng và mở ra đạo Trung Dung làm nền tảng và mục đích cho mọi người theo để trở thành thánh nhân quân tử, phù hợp với mọi tầng lớp và đẳng cấp xã hội, từ người kém trí, từ thứ dân cho tới quan quyền lãnh đạo, tư duy cái trung dung của người quân tử khác với cái trung dung của kẻ tiểu nhân:
 
"Quân tử chi trung dung giã
Quân tử nhi thời trung;
 
Tiểu nhân chi trung dung giã
Tiểu nhân nhi vô kị đạn giã"
 
Còn với Lão tử thì chủ trương đạo Vô vi, vô vi mới thoát khỏi sự tranh đua, lòng tham và ganh ghét, làm mà không làm, xem lớn như nhỏ, coi nhiều như ít và lấy đức báo oán:
 
"Vi vô vi, sự vô sự, đại tiêu đa thiểu, báo oán dĩ đức"
 
 Tóm lại, việc yêu và ghét cũng là vấn đề thường tình của cuộc sống, đều là những cảm xúc mãnh liệt có thể xảy ra nhất thời và bộc phát tại một thời điểm, đôi khi yêu và ghét chẳng những không đối lập nhau mà lại có quan hệ mật thiết với nhau, tại sao không ? Có khi nào chúng ta từng nói "Tôi yêu bạn nhưng tôi cũng ghét bạn" hay không? Nếu có thì rất bình thường nhé các bạn !
 
Hải Triều.

 

 

 


KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Tuesday, December 8, 2015

"Nhờ bóng sao lớn', bán hàng lợi chăng?"

"Nhờ bóng sao lớn', bán hàng lợi chăng?" 
Doanh số tăng cao nhưng luôn có mặt trái.
Nội dung nổi bật:
"Nữ hoàng truyền hình Hoa Kỳ" Oprah Wifrey thành lập câu lạc bộ sách để nâng cao văn hóa đọc tại Mỹ.
- Chiến lược: Tận dụng danh tiếng của mình để thu hút khán giả.
- Thách thức: Nhiều người hoài nghi độ khả thi vì "sách văn học" nghe có vẻ vô vị, nhạt nhẽo.
- Kết quả:
(i) Nhờ danh tiếng của Winfrey, tác giả nào có sách được lên sóng tha hồ hốt bạc.
(ii) Tuy nhiên, thị trường chung của toàn ngành không hề tăng lên.
- Đánh giá:
(i) Doanh số không tăng lên hay giảm đi mà chỉ chuyển từ nơi này sang nơi khác.
(ii) Quảng cáo tốt một sản phẩm, các sản phẩm chung nhãn hiệu cũng sẽ được "thơm lây".
Tác giả là giáo sư dự khuyết môn quản trị, chiến lược tại trường Quản trị Kellogg, Đại học Northwestern.
Năm 1996, "nữ hoàng truyền hình Hoa Kỳ" Oprah Winfrey tuyên bố thành lập một câu lạc bộ sách với mục đích "đem văn hóa đọc trở lại nước Mỹ". Kế hoạch của cô cực kỳ đơn giản: tại một trong những chương trình quảng bá văn hóa đọc rầm rộ nhất lịch sử, Winfrey sẽ tận dụng tầm ảnh hưởng của mình để thu hút khán giả đến với sách.
Hình thức tổ chức cũng đơn giản không kém: tại chương trình, Winfrey lựa chọn một cuốn sách và công bố tựa đề để rồi thảo luận về tác phẩm trên truyền hình một tháng sau đó.
Thách thức: Nghe có vẻ "nhạt nhẽo".
Ngay lập tức, câu lạc bộ sách của Oprah đã vấp phải thái độ hoài nghi từ các nhà bình luận văn học, họ cho rằng các tiết mục truyền hình ban ngày chỉ là mấy chương trình "thị trường, rẻ tiền" như phim sến chẳng hạn.
Đến cả đội ngũ làm việc cho Winfrey cũng tự hỏi liệu khán giả có hứng thú với việc "bị giao bài tập về nhà" rồi ngồi lì trước ti vi như thể đang ngồi trong lò luyện thi tiếng Anh trung học hay không.
Nỗi e ngại lại càng nhân lên khi kết quả điều tra cho thấy tỉ lệ người Mỹ đọc sách văn học giảm từ 57% trong năm 1982 xuống còn 47% trong năm 2002.
Kết quả: Tác giả sách hốt bạc.
Chiêu "tranh thủ tiếng tăm" đã giúp doanh số của các tác giả có sách được chọn tăng lên vùn vụt.
Lựa chọn đầu tiên của chương trình là tác phẩm "Trong thẳm sâu tâm hồn" của Jacquelyn Mitchard (tên gốc: "The deep end of the ocean", kể về một gia đình bị đổ vỡ sau khi cậu con trai ba tuổi bị mất tích. Cuốn tiểu thuyết bán được hơn 70.000 bản, đây là một con số khá ấn tượng đối với "phát súng đầu tiên" tuy nhiên vẫn chưa lên tới mức đột phá. Một tháng sau khi được lên sóng, cuốn sách tăng lên thành 700.000 bản và trở thành "bestseller".
Hai lựa chọn tiếp theo của câu lạc bộ là những tiểu thuyết cũ hơn như "Người yêu dấu" (Beloved) của Toni Morrison và "Câu chuyện của Ruth" (A story of Ruth), tác giả là Jane Hamilton. Nhờ được nữ hoàng truyền hình chọn lựa, mỗi cuốn bán được gần triệu bản.
Không chỉ giới hạn ở những cuốn được lên sóng, doanh số các đầu sách khác của đồng tác giả cũng tăng lên đáng kể. Hiệu ứng này lan tỏa trên phạm vi rộng trong vòng ba tháng sau chương trình, mức độ cao không khác gì khi một cuốn sách nhận được bình luận tốt từ báo New York Times.
Với ngành xuất bản thì sao?
Thắc mắc còn lại là liệu chiến lược tranh thủ danh tiếng kể trên có thực sự khuếch đại được thị trường? Kết quả phân tích dữ liệu ngành xuất bản của Nielsen Bookscan cho thấy chương trình của câu lạc bộ không hề khiến doanh số tổng thể tăng lên.
Trên thực tế, doanh số tác phẩm cùng thể loại của cuốn sách được lên sóng tại các hiệu sách lại giảm đáng kể. Lời giải thích hợp lý cho việc này là các tác phẩm được giới thiệu khó hiểu hay dài hơn những cuốn khác.
Bài học
- Câu lạc bộ sách của Oprah là một ví dụ điển hình cho một chiến dịch "tranh thủ danh tiếng" khá nổi bật, gợi cho chúng ta liên tưởng đến trường hợp dòng rượu Vin Mariani được bảo chứng bởi giáo hoàng Leo XIII năm 1899.
- Ở nhiều quốc gia, khoảng 40% quảng cáo áp dụng hình thức này. Tuy nhiên, tác động của nó lên hành vi người dùng vẫn chưa được đánh giá rõ ràng. Đó là lý do tại sao các công ty hay thất bại khi phát triển chiến lược quảng cáo hay phản ứng trước các đối thủ cạnh tranh.
- Ban đầu Winfrey cho rằng kế hoạch của cô sẽ thành công, văn hóa đọc sẽ lớn mạnh hơn trên đất Mỹ. Nhưng không, nó chỉ khiến doanh số cho riêng đầu sách được lên sóng tăng lên. Kết quả cuối cùng vẫn là "doanh số không tăng lên hay giảm đi mà chỉ chuyển từ nơi này sang nơi khác".

Kết quả của chiến dịch khá hữu ích cho những công ty bán sản phẩm chung một nhãn hiệu. Sự bảo chứng của Winfrey đã thúc đẩy mạnh mẽ doanh số của các tựa sách dưới tên cùng một tác giả, điều đó cho thấy việc quảng cáo hiệu quả cho một sản phẩm có thể tác động lớn tới toàn bộ danh mục.

Hải Triều.

KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

"Chữ hiếu"


"Chữ hiếu"

Triết học Nho giáo, chữ hiếu đi đôi với hiếu nghĩa và lễ giáo. Theo sách Trung Dung, Khổng tử nói "Kính hỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn, hiếu chi chí giã".

Khổng tử rất đề cao chữ hiếu, vì đó là căn bản ứng xử của con người, từ đó mà việc thảo kính của con cái đối với cha mẹ đã được xem như là một đạo hiếu. Nói tổng quát, theo Khổng giáo lòng hiếu thảo có nghĩa là đối xử với cha mẹ của mình, chăm sóc cha mẹ của mình, cùng với các hành vi cư xử đối với bậc cha mẹ để danh tiếng tốt cho cha mẹ và tổ tiên, thực hiện tròn trách nhiệm và đạo hiếu của người làm con cả khi cha mẹ còn sống, cũng như đã mất.

Chữ hiếu đối với văn hóa Việt Nam, cũng được thể hiện qua câu ca dao mà từ thuở bé bất cứ ai cũng từng được nghe:
 "Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con."

Có thể nói chữ hiếu đó chính là bài học đầu tiên về Đạo làm người, là nền tảng đạo đức của xã hội và là nét văn hóa đặc trưng của mỗi dân tộc. Trong mỗi gia đình chữ hiếu xuất phát từ tình cảm yêu thương, quan tâm và trách nhiệm, cũng như cách dạy dỗ và giáo dục của cha mẹ đối với con cái, giúp con cái cảm nhận và trân trọng những gì thuộc về giá trị và nét đẹp truyền thống của gia đình, cũng như các mối quan hệ huyết thống giữa các thành viên trong gia đình.
 
Ngày nay, hiếu nghĩa chính là nét đẹp và giá trị tinh thần, xuất phát từ tâm của mỗi cá nhân được hun đúc và đúc kết bằng những truyền thống tốt đẹp quý báu từ những giá trị truyền thống từ gia đình, mỗi gia đình chính là một tế bào của xã hội, và là phần không thể thiếu của xã hội hiện đại. 

Hải Triều.




KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Monday, December 7, 2015

"Như thế nào gọi là sống đẹp? "


"Như thế nào gọi là sống đẹp? "

Cuộc sống luôn đa dạng và phong phú, mỗi con người sinh ra đều có tính cách riêng của bản thân, tính cách có thể do hoàn cảnh hoặc thiên phú, và mỗi người đều có quan điểm sống của riêng mình. Có người có quan điểm có quan điểm thế này, người quan điểm thế kia, người thì sống riêng cho bản thân, người thì luôn trăn trỡ với cuộc sống xung quanh, kỳ vọng những gì tốt đẹp nhất.

Vậy thế nào gọi là sống đẹp? Sống đẹp là sống biết hy sinh bản thân mình, không vì lợi ích cá nhân, và dám dấn thân đấu tranh vì người khác, mình vì mọi người và mọi người vì mình. Người sống đẹp là người có tâm hồn, tình cảm lành mạnh, có ước mơ trong sáng, có niềm tin và nghị lực vượt qua những sóng gió cuộc đời.

Người có cách sống đẹp luôn hướng về những gì thuộc về Chân - Thiện - Mỹ, luôn hướng tới những gì tốt đẹp nhất, hướng tới sự thanh cao, làm cho xã hội tốt đẹp hơn, đẩy lùi những gì xấu xa của cuộc sống hiện tại, phát huy cái tốt, cái thiện và đấu tranh với cái ác, tư tưởng cá nhân nhỏ hẹp tầm thường...

Hải Triều.






KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT

Sunday, December 6, 2015

"Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống"

"Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống"

Khi ta du hành quanh thế giới, dù là ở Ấn Độ hay Hoa kỳ, ở Âu Châu hay Úc Châu, ta đều nhận thấy có sự cực kỳ giống nhau của bản chất con người. Điều này đặc biệt đúng tại các trường Đại học và Trung học. Chúng ta thành ra, như thể qua một cái khuôn, một mẫu người mà điều chú tâm chính yếu là tìm kiếm sự bảo đảm an toàn, cốt để trở nên một con người quan trọng nào đó, hoặc để có được một thời gian vui chơi thỏa thích với ít suy nghĩ suy tư chừng nào hay chừng ấy.
Nền giáo dục theo tập quán đã làm cho việc suy tưởng độc lập chế độ khó khăn. Sự giống nhau đưa đến tầm thường. Khác biệt với đoàn nhóm hoặc chống lại hoàn cảnh chung quanh không phải dễ dàng gì và thường hay có nhiều hiểm nguy bao lâu mà chúng ta còn tôn sùng thành công. Sự thôi thúc để được thành công là việc chạy theo điều tưởng thưởng có thể nó ở trong vật chất hoặc trong cái gọi là lĩnh vực tinh thần, sự tìm kiếm điều bảo đảm an toàn bên trong hay bên ngoài, khát vọng cho sự an lạc - toàn thể tiến trình này đã che đậy cái tinh thần bất mãn bất bình, làm chấm dứt tính tự phát và làm nảy nở sợ hãi và sợ hãi làm bế tắc sự hiểu biết thông minh của cuộc sống. Với tuổi tác gia tăng, tâm trí và tâm hồn bắt đầu khô cằn.
Trong việc tìm kiếm điều an lạc, chúng ta thường hay tìm một góc xó lặng lẽ trong cuộc sống nơi ít có sự tranh chấp, và lúc bấy giờ chúng ta sợ bước ra ngoài nơi ẩn dật ấy. Điều sợ hãi cuộc sống này, sợ hãi tranh đấu và kinh nghiệm mới mẻ này đã hủy diệt cái tinh thần mạo hiểm của chúng ta: hết thảy sự dạy dỗ và giáo dục của chúng ta đã làm cho chúng ta sợ mình khác biệt với người lân cận của chúng ta, sợ việc suy nghĩ trái lại với cái khuôn mẫu đã được thiết lập của xã hội, kính trọng một cách lầm lạc quyền lực và cổ tục.
May mắn thay, còn có một số ít người nhiệt thành, họ sẵn sàng quan sát những vấn đề con người của chúng ta mà không có thiên kiến của phe tả hoặc cánh hữu nhưng trong tối đại đa số chúng ta, không còn có cái tinh thần bất bình, tinh thần phản kháng thực sự. Khi chúng ta đầu hàng một cách không thể lý giải được với hoàn cảnh chung quanh, thì bất cứ tinh thần phản kháng nào mà có thể là chúng ta có được đã lắng dần xuống, và khả năng của chúng ta chẳng bao lâu đi đến chỗ chấm dứt.
Phản kháng có hai loại: có loại phản kháng bạo động chỉ thuần bằng sức phản ứng, không hiểu biết, chống lại cái trật tự hiện tồn và có một loại phản kháng tâm lý sâu xa của trí năng. Có nhiều người phản kháng chống lại những quy tắc chánh truyền để chỉ lại rơi vào những quy tắc chính truyền mới, tạo thêm những ảo tưởng và chứa chấp sự tự khoan dung. Những gì thường xảy ra luôn là chúng ta ra khỏi một nhóm này hay hướng về những lý tưởng và gia nhập một nhóm khác, theo những lý tưởng khác, như vậy tạo ra một khuôn mẫu tư tưởng mới mà chúng ta lại sẽ phản kháng nữa. Sức phản kháng chỉ làm nẩy nở sự chống đối tương phản, và sự cải cách này cần sự cải cách khác nữa.
Nhưng có một sự phản kháng thông minh mà nó không phải là sự chống đối, và nó đến với sự tự hiểu biết qua việc nhận ra cảm giác và tư tưởng của mình. Chỉ khi nào chúng ta đương đầu với cái kinh nghiệm như nó xảy đến và không lẩn tránh điều quấy rối của nó thì khi ấy chúng ta mới đánh thức trí thông minh tột bậc và sự đánh thức trí thông minh tột bậc ấy là trực giác, nó là sự dẫn đạo thực sự duy nhất trong cuộc sống.
Vày thì đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Chúng ta đang sống và chiến đấu cho cái gì? Nếu chúng ta được giáo dục chỉ cốt để đạt đến sự phân biệt ly cách, để chiếm một nghề nghiệp tối hơn, để được kết quả hơn, để chi phối trên các kẻ khác rộng rãi hơn, thì lúc bấy giờ cuộc sống của chúng ta sẽ nông cạn và trống rỗng. Nếu chúng ta được giáo dục chỉ cốt để trở nên những nhà khoa học, những nhà học giả kết hợp với những cuốn sách hoặc những nhà chuyên môn chăm chú vào kiến thức rồi thì chúng ta sẽ góp phần vào sự hủy hoại và nỗi thống khổ của thế giới.
Mặc dù có một ý nghĩa cao cả và rộng rãi hơn cho cuộc sống, nền giáo dục của chúng ta có giá trị gì nếu chúng ta không bao giờ khám phá ra nó? Chúng ta có thể được giáo dục tột bậc, song nếu chúng ta không hợp nhất sâu xa tư tưởng với cảm giác thì cuộc sống của chúng ta không hoàn toàn, mâu thuẫn với nhau và bị xâu xé với nhiều nỗi sợ hãi và bao lâu giáo dục không bồi bổ một viễn ảnh hợp nhất về cuộc sống thì nền giáo dục ấy rất ít có ý nghĩa.
Trong nền văn minh hiện thời của chúng ta, chúng ta đã phân biệt đời sống thành ra nhiều khu vực thế nên giáo dục có rất ít ý nghĩa ngoại trừ trong việc học một nghề hay một kỹ thuật đặc biệt nào đó. Thay vì đánh thức trí thông minh toàn vẹn của cá thể, giáo dục khuyến khích y làm đúng theo khuôn mẫu và như vậy là làm trở ngại cho sự hiểu biết của mình y như một tiến trình hoàn toàn. Để cố gắng giải quyết nhiều vấn đề sinh tồn ở những bình diện theo thứ tự của chúng, đã chia biệt ra khi chúng nằm trong những phạm trù khác biệt nhau, biểu thị một sự hoàn toàn thiếu thốn sự hiểu biết của nó.
Cá nhân là sự lập thành của những thực thể khác nhau nhưng nhấn mạnh vào sự khác nhau ấy và khuyến khích phát triển một kiểu mẫu rõ ràng nào đó đưa đến nhiều rối rắm và mâu thuẫn. Giáo dục sẽ gây ra sự hợp nhất của những thực thể riêng lẻ này, bởi vì không có sự hợp nhất, cuộc sống trở nên một chuỗi những chấp tranh và phiền muộn. Có giá trị gì ở việc đào luyện những người như những luật sư nếu chúng ta cứ mãi tranh tụng nhau? Đâu là giá trị của kiến thức nếu chúng ta cứ tiếp tục trong sự lầm lạc của chúng ta? Những gì là tính cách trọng đại của kỹ thuật và khả năng thuộc về công nghiệp nếu chúng ta sử dụng nó để hủy hoại người khác? Đây là điểm yếu của cuộc sinh tồn của chúng ta nếu nó đưa đến bạo động và hoàn toàn khốn khổ? Mặc dù chúng ta có tiền hoặc có khả năng kiếm ra tiền, mặc dù chúng ta có những lạc thú và những tổ chức tôn giáo của chúng ta, chúng ta vẫn ở trong cuộc tranh chấp vô hạn.
Chúng ta cần phải phân biệt giữa con người và cá thể. Con người là sự ngẫu nhiên, vô cố, và bởi sự ngẫu nhiên vô cố ấy tôi định nói đến những trường hợp sinh đẻ, hoàn cảnh mà trong đó tình cờ chúng ta được nuôi nấng. với chủ nghĩa quốc gia, những mê tin dị đoan, những phân chia giai cấp và các thiên kiến của nỏ. Con người hay sự ngẫu nhiên vô cố chỉ là trong chốc lát, mặc dù cái chốc lát ngắn ngủi ấy có thể kéo dài suốt cả một dời, và khi hệ thống giáo dục hiện thời dựa trên con người ấy, dựa trên sự ngẫu nhiên chốc lát ấy nó đần đến sự suy đồi tư tưởng và khắc sâu vào những nỗi sợ hãi tự phòng vệ.

Tất cả chúng ta đều đã được huấn luyện bởi giáo dục và hoàn cảnh chung quanh để tìm kiếm lợi lộc và an toàn cho cả nhân, và chiến đấu cho bản thân chúng ta. Mặc dù chúng ta che đậy nó dưới nhưng thành ngữ thú vị, chúng ta đã được giáo dục nhiều nghề nghiệp trong một hệ thống nền tựa trên sự lợi dụng và hàm chứa nỗi sợ hãi. Một giáo huấn như vậy ắt không tránh khỏi đưa đến hỗn loạn và thống khổ cho chính chúng ta và cho thế giới, bởi vì nó tạo ra trong mỗi cá nhân những chướng ngại tâm lý chia cách và cô lập y với những người khác.
Giáo dục không chỉ là một vấn đề huấn luyện tâm trí. Huấn luyện đưa tới hiệu năng, nhưng nó không gây ra sự toàn vẹn. Một tâm trí chỉ được huấn luyện không thôi thì chỉ là sự kéo dài thêm ra cái quá khứ, và một tâm trí như vậy có thể chẳng bao giờ khám phá ra được điều mới mẻ nào cả. Đó là do đâu, tìm kiếm những gì là nền giáo dục thích đáng chúng ta sẽ phải dò xét toàn thể ý nghĩa cuộc sống.
Đối với hầu hết chúng ta, cái ý nghĩa cuộc sống như một toàn thể thì không phải là điều quan trọng trên hết và nền giáo dục của chúng ta chỉ nhấn mạnh vào những giá trị thứ yếu, chỉ làm cho chúng ta thành thạo một vải ngành của kiến thức mà thôi. Mặc dù kiến thức và hiệu năng cần thiết đấy, nhưng chỉ khăng khăng một mực nhấn mạnh vào chúng sẽ dẫn đến chấp tranh và hỗn loạn.
Một hiệu năng mà được phát sinh bởi tình yêu vượt quá siêu việt thì lớn lao hơn là cái hiệu năng của lòng tham vọng và không có tình yêu, mà tình yếu đem đến hiểu biết loàn bộ cuộc sống, thì bây giờ hiện năng sinh ra sự tàn nhẫn, vô tình. Điều này không phải là những gì hiện đang xảy ra tại khắp nơi trên thế giới sao? Nền giáo dục của chúng ta đã ăn khớp với việc kỹ nghệ hóa và chiến tranh, và mục đích chính của nó là phát triển hiệu năng và chúng ta đã bị túm lấy trong cuộc ganh đua của máy móc vô tình và sự hủy diệt lẫn nhau này. Nếu giáo dục dẫn đến chiến tranh, nếu nó dạy chúng ta tiêu diệt hoặc bị tiêu diệt, thì không phải nó đã hoàn toàn thất bại rồi sao?
Để phát sinh nền giáo dục thích đáng, hiển nhiên chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa cuộc sống như một toàn thể, và do đấy, chúng ta càn phải suy tưởng, không phải một cách cứng ngắt giáo điều, nhưng là một cách trực tiếp và thực sự.

Một nhà tư tưởng cứng ngắt giáo điều là mộ[ người khinh suất vô tâm, bởi vì ông ta làm đúng theo một kiểu mẫu, ông ta lập lại những thành ngữ và tư tưởng trong lề lối cũ kỹ. Chúng ta không thể nào hiểu biết cuộc sinh tồn một cách trừu tượng hay thuộc về lý thuyết. Hiểu biết cuộc sống là hiểu biết chính chúng ta và đấy là cả hai bắt đầu và chấm dứt giáo dục.
Giáo dục không chỉ là sự tiếp thu kiến thức, gom góp lại những sự kiện có tương quan với nhau, giáo dục là để nhìn thấy ý nghĩa cuộc sống như một toàn thể. Nhưng cái toàn thể ấy không thể đạt đến qua từng phần - đấy là những gì mà các Chính phủ, các tổ chức tôn giáo và các Đảng chính trị đang cố gắng thi thố.
Sứ mạng của giáo dục là đào tạo những con người toàn vẹn và do đấy là những con người thông minh. Chúng ta có thể chiếm được những phẩm chất và có khả năng như máy mà không cần thanh minh. Thông minh không chỉ là sự hiểu biết, nó không phải nhờ ở những cuốn sách, cũng chẳng phải cốt ở những phản ứng tự vệ khôn khéo và những xác ngôn công kích. Người vô học cũng có thể thông minh hơn người có học. Chúng ta có những cuộc thi cử và những phẩm trật làm tiêu chuẩn cho trí thông minh và đã làm nảy nở những đầu óc xảo quyệt lẩn tránh những vấn đề sinh tử của con người. Thông minh là khả năng nhận thức được cái cốt yếu, cái tự tại (What is) và việc đánh thức khả năng này, trong bản thân mình và trong các kẻ khác, đấy là giáo dục.
Giáo dục sẽ giúp chúng ta khám phá ra những giá trị muôn đời, thế nên chúng ta không chỉ đeo bám vào những định thức hay lập lại những khẩu hiệu: giáo dục sẽ giúp chúng ta phá vỡ những hàng rào quốc gia và xã hội của chúng ta, thay vì nhấn mạnh vào chúng, bởi vì những hàng rào ấy làm phát sinh sự tương phản giữa người và người. Bất hạnh thay, hệ thống giáo dục hiện tại làm cho chúng ta quá khúm núm, máy móc và cực độ vô tâm, dù nó có đánh thức trí năng chúng ta đi nữa, một cách tinh thần nó lưu lại cho chúng ta sự bất toàn, vô hiệu và không có tinh thần sáng tạo.
Không có sự hiểu biết trọn vẹn cuộc sống, cá nhân và nhưng vấn đề tập thể của chúng ta sẽ chỉ gia tăng sâu đậm thêm mà thôi. Mục đích của giáo dục không chỉ đào tạo những học giả, những kỹ thuật gia và những kẻ săn việc, nhưng là những nam, nữ công dân toàn vẹn mà họ tự do vô hạn, bởi vì chỉ có giữa những con người như vậy mới có thể có một nền hoà bình vĩnh cửu.
Chính vì hiểu biết bản thân chúng ta mà sợ hãi đi đến chỗ chấm dứt. Nếu cá nhân đương đầu với cuộc sống từng phút giây một, nếu y đối diện với những phức tạp thiên hình vạn trạng của nó, những nỗi thống khổ và những đòi hỏi bất thần của nó, thì một cách vô hạn y hẳn có thể uốn nắn nó được và do đấy tự do với những lý thuyết và những kiểu mẫu đặc biệt nào.
Giáo dục sẽ không khuyến khích cá nhân làm đúng theo xã hội hoặc phủ nhận sự hòa điệu với nó, nhưng để giúp y khám phá ra những giá trị thực sự đến từ sự dò xét vô tư và tự giác. Khi không có sự tự hiểu biết, điều tự bày tỏ trở nên độc đoán khẳng quyết với tất cả những công kích và tham vọng chấp tranh của nó. Giáo dục sẽ đánh thức khả năng tự giác và không chỉ làm thỏa mãn sự phóng túng của sự tự bày tỏ mà thôi.
Đâu là việc học hành giỏi dang nếu trong quá trình của cuộc sống chúng ta hủy diệt chính chúng ta. Khi chúng ta đã có hàng loạt những cuộc chiến tranh, cuộc chiến tranh này tiếp theo sau cuộc chiến tranh tranh kia, hiển nhiên là có một cái gì sai lầm từ căn để ở cải cách thức chúng ta nuôi nấng dạy dỗ con em chúng ta. Tôi nghĩ rằng hầu hết chúng ta đều ý thức đến điều này, song chúng ta không biết làm thế nào tiếp xúc đối mặt với nó.
Các hệ thống dù là giáo dục hay chính trị, đã không được đổi thay một cách huyền diệu, chúng chỉ chuyển hóa khi nào có một sự thay đổi nền tảng trong chính chúng ta. Cá nhân là quan trọng trên hết, chứ không phải hệ thống và bao lâu cá nhân không hiểu biết toàn thể quá trình của mình, thì không có một hệ thống nào, dù là ở phe tả hay phe cánh hữu có thể mang đến trật tự và hòa bình cho thế giới.
 

KHUYẾN MÃI LỚN HOT HOT HOT